Ngày xưa, ở trên
thiên đình có cô con gái Ngọc Hoàng tên là Liễu Hạnh. Tính tình cô phóng túng
ngang bướng, không chịu theo khuôn phép nhà trời. Ngọc Hoàng hết lòng dạy dỗ
nhưng vô ích, cô chứng nào vẫn giữ tật ấy. Giận vì trong nhà có con gái hư
không thể làm vì cho thiên hạ, Ngọc Hoàng quyết trị tội để cho con tu tỉnh.
Nhân một lần Liễu Hạnh phạm lỗi, Ngọc Hoàng bèn đày nàng xuống trần trong ba
năm. Sau khi xuống trần, Liễu Hạnh hóa thân thành một cô gái đẹp, dựng
một cái quán ở chân núi đèo Ngang. Đây là nơi rừng núi vắng vẻ nhưng cũng là
nơi con đường thiên lý từ Bắc vào Nam vắt qua, nên hàng ngày không bao giờ ngớt
bộ hành đi lại. Từ xưa đến nay, vì sợ giặc cướp và thú dữ, không ai dám đến
đó mở quán bán hàng. Vì vậy ngôi hàng độc nhất của Liễu Hạnh ngày nào
cũng đông khách. Bất kỳ ai lên đèo xuống đèo, đã đi qua quán không thể không
ghé lại nghỉ chân, huống gì trong quán lại có cô gái tuyệt sắc.
Từ khi bị đày, Liễu
Hạnh vẫn chưa bỏ được nết cũ, khinh mạn và trêu chọc mọi người. Cho nên, hễ ai
vào quán ăn bánh uống nước rồi tiếp tục ra đi thì không sao. Nhưng hễ thấy chủ
quán xinh đẹp mà giở thói cợt nhả, hoặc có ý cậy sức, cậy thế, cậy thần làm điều
bất chính thì nàng quyết trị tội không tha: lúc trở về nếu không lăn ra chết
cũng trở thành điên rồ ngây dại.
Hồi ấy là thời vua
Lê Thái Tổ trị vì thiên hạ. Tiếng đồn về một cô gái đẹp một mình mở quán
ở đèo Ngang không mấy chốc lan truyền rất rộng. Khắp nơi bàn tán xôn
xao. Người thì nói chủ quán là một cô gái võ nghệ hơn đời, mình nàng địch nổi
trăm người một lúc. Kẻ thì cho cô là một ả giang hồ thành thạo, không những giỏi
quyến rũ trai tơ mà còn làm nhiều nghề không lương thiện khác. Cũng có người
cho cô là một nàng tiên xuống thử người phàm trần. Mỗi người nói một phách
không biết thế nào mà tin. Nhưng tiếng đồn xa gần về cô chủ quán đèo
Ngang cũng thu hút vô số chàng trai vô công rồi nghề từ làng quê đến Kẻ-chợ.
Hoàng tử con vua Lê bấy giờ đang trẻ người non dạ, nghe tin ấy bụng cũng say
mê. Hoàng tử muốn sai ngay quân lính đi bắt người con gái kia về, nhưng vốn biết
tính vua cha rất nghiêm khắc, làm náo động cả một phương là chuyện không bao giờ
nhà vua cho phép. Vả lại nghe nói người con gái ấy đã giỏi võ nghệ lại có nhiều
phép thuật nên cũng ngần ngại.
Sau cùng không ngăn
nổi lòng ao ước và trí tò mò, một hôm, hoàng tử giấu vua cha và hoàng hậu, sắm sửa
cáng xá hành lý, đóng vai một nhà quý tộc trẻ tuổi dẫn đoàn thị vệ cải trang ra
đi. Sau hơn mười ngày đường, hoàng tử vượt qua sông Lam, rồi núi Nam-giới,
và sắp bước chân lên đèo cao nhất.
Từ trên đèo Ngang,
Liễu Hạnh đã biết có hoàng tử đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng
trai tầm thường, không có bản lĩnh gì, nhưng lại kiêu căng, dật lạc. Để
ngăn cản, nàng hóa phép thành một cây đào tiên mọc ở vệ đường, chỗ hoàng tử
đang nghỉ chân; trên cây có một quả chín mọng rất đẹp mắt. Hoàng tử vừa chợt thấy
quả đào đã thèm rỏ giãi, bèn không đợi sai lính hầu, vội trèo lên ngắt xuống
toan ăn. Quả đào đang thơm ngát và ngon lành, bỗng đâu khi sắp bỏ vào miệng thì
trở nên mềm nhũn trên tay hoàng tử, rồi thu nhỏ, cuối cùng mất biến không còn
tý gì nữa. "Quả đào này có ma?". Bọn thị vệ kinh hãi la lên
và khuyên hoàng tử hãy nên cẩn thận. Hoàng tử cũng cảm thấy rờn rợn.
Nhưng vì vẫn không thể hiểu được ý nghĩa răn đe kín đáo của Liễu Hạnh,
nên một chốc sau chàng lại giục phu cáng tiếp tục đi nhanh đến chân đèo.
Khi giáp mặt Liễu Hạnh
quả nhiên cả thầy lẫn tớ ai nấy đều thảng thốt sững sờ. Chưa bao giờ hoàng tử lại
mê mẩn đến như thế. Người con gái này có nhan sắc kiều diễm đúng như lời đồn,
trong cung đình vua cha dễ không có người nào sánh kịp. Hoàng tử bèn kín đáo hạ
lệnh cho cả đoàn dừng chân ở quán, lân la hết ăn đến uống kéo dài đến tận chiều,
rồi khi mặt trời gần lặn, bảo với chủ nhân:
- Đường xa trời
tối. Chúng ta muốn nghỉ lại ở đây một đêm. Chẳng hay nữ chủ nhân có bằng lòng không?
Liễu Hạnh đã thừa rõ
tâm tư của hoàng tử, bèn khước từ:
- Thưa công tử,
ở đây hàng quán chật chội, vả lại chỉ có mấy chị em là đàn bà con
gái, công tử và các vị ở lại sợ không tiện. Cách đây nửa dặm về phía Đông có
làng xóm. Các vị đến đó trú sẽ có sẵn nhà cửa và dân phu phục dịch.
- Chúng ta chỉ
cần nghỉ ở đây thôi! Nữ chủ nhân đừng lo. Chỉ cần một chỗ trong quán để căng
màn là đủ. Ngoài ra xin hứa là không làm gì phiền đến nữ chủ nhân cả.
- Nếu thế
thì công tử cứ tùy tiện.
Tối lại, mọi người
ăn cơm xong sửa soạn đi ngủ. Những phu cáng và lính hầu trải chiếu nằm la liệt
giữa sân. Riêng hoàng tử đã có hai thị vệ căng màn trướng ở trong quán. Trời
mùa hè mát mẻ, trăng gió hữu tình. Dưới ánh đèn dầu, hoàng tử dựa cột
trò chuyện với nữ chủ quán không rời. Liễu Hạnh vẫn chịu khó ngồi nán lại tiếp. Mỗi lời
nói của nàng đều đẹp lòng khách làm cho hoàng tử càng thêm mê hồn.
Chàng quên mất lời hứa, đánh rơi cả vẻ đạo mạo lúc mới tới và bắt đầu
tả lơi. Liễu Hạnh cự tuyệt và chạy vào buồng. Trong cơn si mê, hoàng tử không cần
gì thể diện nữa, bèn chạy theo vào. Có ngờ đâu chỉ trong nháy mắt, Liễu Hạnh đã
biến hình, phi thân lên núi bắt một con khỉ cái về cho hóa thành một cô gái đẹp
để đánh lừa hoàng tử. Không thấy chủ quán đâu nhưng thấy một cô gái khác trong
buồng, hoàng tử liền cầm lấy tay dắt tới trước đèn. Nhìn thấy cô gái này cũng đẹp
không kém gì cô chủ, hoàng tử liền giở trò suồng sã. Nhưng bỗng chốc hắn rú lên
một cách dễ sợ làm cho bọn lính hầu đều tỉnh dậy. Trong tay hoàng tử không phải là một cô gái nõn nà nữa mà là một con khỉ cái lông lá đầy
người. Bọn lính hầu xông lại. Vụt một cái, con khỉ lại biến thành một con rắn hổ
mang hoa từ trên người hoàng tử vươn lên kèo nhà, há miệng phun lửa phì phì, rồi
biến mất. Khi bọn lính hầu thắp được đèn lên thì hoàng tử đã ngã vật ra quán mê
man, mặt cắt không còn giọt máu.
Nửa đêm hôm đó người
ta cắt ngựa trạm đưa hoàng tử về kinh. Về đến cung, hoàng tử trở nên mất trí,
ai hỏi cũng không trả lời, chỉ cười nói một mình. Hoàng hậu và phi tần hết sức
lo sợ. Một mặt, Hoàng hậu cho giấu kín chuyện "vi hành" khinh suất
đó, mặt khác cho mời các bậc ngự y và thầy thuốc giỏi khắp kinh thành. Tuy
nhiên, các danh sư được đón vào chữa chạy cho hoàng tử đều lắc đầu bó tay.
Trong cung càng thêm bối rối hoảng hốt. Sau cùng, có người mách nên vào xứ
Thanh xin bùa phép ở tám vị Kim Cang họa may mới khỏi.
Lại kể chuyện một
ngàn năm về trước, Phật bà Quan âm một hôm hiện ra ở biển Đông hóa phép thành
hai cái túi: một nổi lên ở giữa biển, còn một, ở trên núi Ói làng
An-đông xứ Thanh. Sau một thời kỳ lâu dài, hai cái túi nở ra hai đóa hoa, và từ
trong mỗi đóa hoa hiện ra bốn vị tướng có phép biến hóa cực kỳ huyền diệu. Theo
lệnh của Phật bà, tám vị tướng thân chinh đi tám phương đánh dẹp tà ma quỷ
quái đang hoành hành quấy nhiễu. Dẹp xong, Phật bà gọi họ về ở lại chỗ cũ. Người
ta quen gọi là Bát bộ Kim Cang.
Lập tức bọn thị vệ
được lệnh vua vào Thanh-hóa để xin bùa phép của tám vị Kim Cang. Nhờ có bùa
phép, hoàng tử dần dần khỏi bệnh. Sau khi bình phục, hoàng tử cúi đầu nhận tội
với vua cha, kể lại cho vua nghe tất cả câu chuyện gặp gỡ giữa mình với nữ chủ
quán ở đèo Ngang. Vua Thái Tổ hết sức giận dữ, vì hoàng tử đã dám khinh thường
lệnh vua, bỏ phủ đi chơi, hãm mình vào cảnh thân tàn ma dại, nên xuống chiếu cất
ngôi hoàng tử mà lập con thứ lên thay. Nhưng vua còn hết sức giận dữ vì ở trên
bờ cõi mình trị vì lại có một người con gái dám khinh nhờn phép nước. Vua bèn
ban lệnh hỏi quan trấn thủ xứ Nghệ về lai lịch nữ chủ quán đèo Ngang. Sau một
thời gian cho người cất công dò la, quan trấn thủ mới gửi sớ về tâu bày, trong
sớ nói đó là một nữ yêu không biết từ đâu đến, hay bắt hồn đàn ông con trai, nếu
không có phép cả tài cao thì khó lòng khuất phục.
Vua lại lệnh cho với
các pháp sư phù thủy cao tay đi trừ yêu. Nhưng chẳng bao lâu họ đã trở về triều
xin chịu tội vì chẳng những không trị nổi yêu mà mọi phép giở ra đều
bị Liễu Hạnh thu mất cả. Vua lại đành phải cầu cứu tám vị
Kim Cang. Nhận lời vua, tám vị phi thân vào đèo Ngang. Được tin chẳng lành, Liễu
Hạnh ra ứng chiến. Cuộc chiến đấu dần dần trở lên dữ dội. Mới đầu Tám vị Kim
Cang làm một trận bão lớn, mưa dồn gió giật khủng khiếp, cây đổ khắp lượt, nước
tràn vào vây lấy đèo Ngang. Liễu Hạnh cũng hóa phép chống lại. Nàng làm cho cây
rừng đã đổ lại đứng dậy cùng với đất đá bay rào rào vào kẻ thù. Thấy Liễu Hạnh
pháp thuật cao cường, tám vị Kim Cang lại hóa phép thành thú dữ tập hợp
nhe nanh múa vuốt xông vào hàng đàn toan xé cắn, nhưng Liễu Hạnh đã kịp thời
bay lên không trung, rồi dùng phép tiêu diệt hết bầy mãnh thú.
Trận đánh diễn ra ba
ngày ba đêm. Đèo Ngang trở thành một bãi chiến trường rùng rợn. Mọi phép thuật
của hai bên lần lượt giở ra mà chưa phân thắng phụ. Về sau tám vị Kim Cang biết
mình bất lực, bèn bay lên trời cầu khẩn Phật bà. Phật bà ném cho họ một cái
túi. Nhờ đó nên cuối cùng Liễu Hạnh sa vào túi của Phật bà. Tám vị Kim Cang
mang túi về kinh báo tiệp.
Vua lập tức ra sân
điện tra hỏi.
- Ngươi là ai?
- Tâu bệ hạ, là
con gái Ngọc Hoàng bị đày xuống cõi trần, lấy vùng đèo Ngang làm nơi trú ngụ.
- Là con Ngọc
Hoàng sao lại phá phách dân sự và làm hại hoàng tử con ta?
- Việc trừng trị
bọn con trai chòng ghẹo nhi nữ, ăn hiếp người cô đơn là tuân theo phép nước,
không phải phạm phép nước.
Thấy Liễu Hạnh nói
là con Ngọc Hoàng, lại thấy nàng đối đáp khôn ngoan, vua đổi giận làm vui. Cho
nên sau cuộc thẩm vấn, vua hạ lệnh tha bổng, chỉ khuyên nàng đừng gây
náo động và tàn hại dân lành.
Ít lâu sau Liễu Hạnh
sinh một đứa con trai, mỗi bàn tay có sáu ngón, nàng mang con đến ngôi chùa
trên núi Hồng-lĩnh gửi cho một nhà sư nuôi dạy, dặn nhà sư hãy giúp cho con
mình được lừng danh trong nước. Rồi đó, đủ ba năm. Liễu Hạnh trở về trời.
Nhưng không bao lâu
Liễu Hạnh lại bị Ngọc Hoàng đày xuống trần một lần nữa. Lần này Liễu Hạnh đến
đèo Ba-dội cũng là nơi vắng vẻ, rồi dựng lên ở đây một cái lầu ba tầng, bốn bên
có thành bao bọc. Trong thành có vườn, đủ các thứ hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn tập
hợp đủ các giống chim. Cạnh vườn có ao, thả đủ các giống cá. Hàng ngày nàng
sai mở cửa cho khách bộ hành đi qua về lại được tự do vào nghỉ chân
và nhìn ngắm. Ở đây có quán xá, và cũng như lần trước, Liễu Hạnh thường hóa
mình cô gái bán hoa quả, quà bánh, trầu nước và đồ chơi. Ai ăn uống mua bán rồi
đi thì không sao, nếu giở chuyện trộm cướp trăng hoa, lập tức bị nàng trừng trị.
Ở được mấy năm, Liễu
Hạnh lại sinh một con trai thứ hai. Đứa bé thiếu mất ở mỗi bàn tay một ngón.
Nàng đem con gửi cho một sư nữ ở chùa Bà-đỏ, bảo sư rằng:
- Ta hai lần xuống
trần đẻ được hai đứa con, cũng định cho chúng trở thành vương giả nhưng không đạt,
vì một đứa quá thừa, một đứa lại quá thiếu. Hãy làm cho nó được nổi tiếng, ít
nhất cũng trở thành Trạng. Rồi đó, hết hạn ở trần. Liễu Hạnh đốt tất
cả lâu đài mà trở về trời.
Những đứa con của Liễu
Hạnh về sau quả nhiên nổi tiếng, trong đó có một đứa tên là Trạng Quỳnh. Chỗ di
tích ngôi đền của Liễu Hạnh xây lên ở xứ Thanh và ở xứ Nghệ, người ta dựng
thành đền thờ trên núi. Không một ai dám động đến một vật gì ở các ngôi đền này
cả, vì sợ Liễu Hạnh báo thù.
Hết.
KHẢO DỊ
Truyện Liễu Hạnh từ
lâu đã được nho sĩ cải biến thành một truyện đượm màu sắc tôn giáo và nho hóa
khác với truyện dân gian, mặc dầu cho đến nay, truyện kể trong dân gian cũng đã
ít nhiều biến đổi về chủ đề: các hình tượng và tình tiết đã được cắt xén, sàng lọc.
Theo Thính văn
dị lục và một số thần tích thì Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ
chén ngọc bị giáng xuống trần đầu thai ở nhà Lê Thái Công, xã Vân-cát (Nam-định)
mang tên là Giáng Tiên. Lớn lên làm con nuôi một viên quan hưu họ Trần, được học
hành nên có tài văn chương, giỏi đàn sáo. Năm mười tám tuổi lấy chồng là Đào
lang, con một viên quan ở làng. Được ba năm hết hạn đày không bệnh mà chết, để
lại cho chồng một trai, một gái. Nhưng vì "trần duyên chưa dứt", Ngọc
Hoàng lại cho xuống trần, lần này với phép biến hóa huyền diệu. Nàng gặp lại bố mẹ và
chồng con, nhưng sau đó lại bỏ đi, tính tình phóng túng, tung tích vô định: khi
làm cô gái thổi sáo, khi hóa bà già chống gậy, ẩn hiện bất thường. Ở Lạng-sơn,
nàng làm thơ ghẹo nho sĩ, ở hồ Tây làm cô hàng rượu ngâm vịnh và dự tiệc với
các ông Phùng Khắc Khoan, họ Ngô, họ Lý, v.v... Lại vào Nghệ-an kết duyên với
người học trò, thường ngày thơ ca xướng họa với chồng, sau sinh được một trai,
rồi lại trở về trời.
Sau ba năm nhớ cõi
trần, Liễu Hạnh lại xin vua cha cho xuống trần một lần nữa. Lần này có đem theo
hai người thị nữ. Họ trú ngụ ở phố Cát (Thanh-hóa) về sau được dân địa phương ở
đây lập đền thờ. Triều đình sau một thời kỳ sai thuật sĩ tiễu trừ mà không
xong, đành thừa nhận và sắc phong là Mã hoàng công chúa.
Sách vở của phái Nội
đạo tràng miêu tả cuộc chiến tranh giữa Tiền quan với Liễu Hạnh như sau:
Khi đày Liễu Hạnh xuống
trần, Ngọc Hoàng thấy chân bên tả của con đi dón gót, biết là xuống dưới ấy sẽ
thành yêu, liền sai Tiền quan giáng sinh luôn để kịp thời ngăn chặn.
Có thói tàn nhẫn, Liễu
Hạnh đi đến đâu gặp điều không vừa ý thì ra tay sát hại. Cho nên ở đâu nàng
cũng làm cho người và vật tử thương. Thành hoàng phải "xuất ngoại".
Người ta sợ nàng đến nỗi bỏ công ăn việc làm, ban ngày đóng cổng không dám lên
tiếng hoặc phải bày đàn ở ven đường cúng lễ.
Về sau đến Sùng-sơn
(Thanh-hóa) thấy cảnh đẹp, Liễu Hạnh báo mộng cho hào trưởng vùng ấy phải lập
cung miếu. Thấy họ còn dùng dằng, nàng làm cho trong năm ngày chết hơn một nửa
dân. Khi cung miếu dựng xong, nàng thường hóa thành gái đẹp bán hàng, hễ bọn
trai trẻ và nho sĩ trêu ghẹo thì tâu về triều. Vua sai các vị pháp sư nổi tiếng
đến trị, nhưng họ không trở về được. Có lần chúa Trịnh vào Lam-sơn. Liễu Hạnh
cùng bộ hạ đón đường quấy phá. Chúa trở về giận lắm, sai người mời tất cả pháp
sư phù thủy và hội tất cả thành hoàng vào đánh nhưng họ chỉ chuốc lấy thất bại.
Lại nói chuyện vị Tiền
quan được giáng sinh làm con trai thứ ba một vị Thượng sư - là tổ sư phái Nội đạo
tràng - cả ba anh em đều được Phật tổ truyền cho phép thuật, hai anh là Tả quan
và Hữu quan tu tại Côn-sơn, còn Tiền quan thì ở ngay lại làng quê, tức là làng
Từ-minh (Thanh-hóa) luyện đạo và truyền đạo cho học trò. Sau lần thất bại của
các pháp sư phù thủy, nhà vua sai sứ đi triệu Tiền quan về kinh phong làm Thượng
tướng cầm ba vạn quân đi đánh Liễu Hạnh.
Đến Tam-điệp. Tiền
quan sai đóng quân lại, còn mình thì cải trang làm dân thường, cưỡi ngựa trắng
tìm đến Sùng-sơn. Gặp Liễu Hạnh, Tiền quan làm bộ thân mật: - "Ta báo cho
biết sắp sửa có nạn lớn vì nàng đã trêu chọc vua chúa. Họ sắp cử đến đây một
pháp sư cao cường. E rằng nàng không địch nổi, nên ta đến xem nàng có phép gì,
nêu thiếu ta sẽ dạy cho". Liễu Hạnh không ngờ gì cả, giở tất cả ba ngàn
phép cho khách xem. Tiền quan hết lời ca ngợi, nói: - "Như thế này thì
không cần phải học gì nữa". Khi Tiền quan về rồi, Liễu Hạnh mới biết là
mình bị mắc mưu, nhưng đã muộn. Cuộc giao chiến bắt đầu. Bên Liễu Hạnh
có các thần bộ hạ đến giúp. Bên phía Tiền quan có hai ông anh cùng với bát bộ
Kim Cang làm tiên phong, hai bên tả hữu có hắc hổ, bạch xà, trung tâm có lục
đinh lục giáp. Sau ba ngày ba đêm chiến đấu, trời nổi mưa to lớn, bụi cát mù mịt,
sấm sét đùng đùng, cây cối nhà cửa tơi tả, người vật chết khắp nơi, nước sông đỏ
như máu. Cuối cùng, quân của Liễu Hạnh thất bại. Quỳnh Hoa, Quế Hoa bỏ chạy. Tiền
quan ngồi trên voi chín ngà giục thần tượng đem lưới sắt vây bọc. Liễu Hạnh hóa
làm một đứa trẻ nhưng bị đuổi kíp quá, lại hóa thành con rồng trốn trong một
cái giếng. Tiền quan bắt được trói bằng dây đồng giải về kinh đô. Vua chúa đang
ngồi trong điện bỗng thấy một đám mây đen đầu rồng đuôi lân, rơi xuống văng lên
ba lần ở sân điện, biết là Tiền quan đã thắng trận.
Nhưng Phật tổ không
muốn để con gái Ngọc Hoàng chịu sự trừng phạt của người trần, nên đã kịp thời
xuống gặp ba anh em, bảo họ giao cho mình làm cho nàng cải tà quy chính.
Đọc thêm♒♒♒
Danh sách truyện cổ tích Việt nam
Danh sách truyện cổ tích Việt nam
Comments
Post a Comment